Nguyễn Tư Giản 阮 思 僴 (1823–1890), ông vốn có tên là Nguyễn Văn Phú, tự là Hy Bật 希 弼, Tuân Thúc 洵 叔, hiệu là Vân Lộc 雲 麓 và Thạch Nông 石 農. Sau vua Thiệu Trị mới đổi lại là Địch Giản, vua Tự Đức lại cho tên là Tư Giản. Ông là một danh sĩ và là một vị quan từng trải qua những chức vụ trọng yếu suốt hơn 40 năm, phục vụ 7 đời vua Nguyễn.

Nguyễn Tư Giản sinh tại làng Du Lâm, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội), trong một gia đình khoa bảng nhiều đời. Ông là cháu nội danh sĩ Nguyễn Án (阮 案 1770 – 1815, năm Gia Long thứ tư – 1805 đỗ cống sinh, sau đó được bổ làm Tri huyện Tiên Minh, là đồng tác giả tập ký Tang Thương Ngẫu Lục với ông Phạm Đình Hổ 范 廷 琥 1768 – 1839, cùng thời với nữ sỹ Hồ Xuân Hương 胡 春 香 1772 – 1822, ba người ấy người đời gọi là Tam Tài Tử). Cha ông là Nguyễn Tri Hoàn  阮 知 完, đỗ Cử nhân, làm Hình Bộ Lang Trung dưới thời Minh Mạng(1). Lên 5 tuổi, thì mẹ mất, lên 11 tuổi thì cha mất, nên ông phải đến ở nhà ông bà ngoại, ngoài cửa Bắc thành Hà Nội.

Ban đầu, ông học với người anh cả là Nguyễn Đức Hiến, năm Minh Mạng thứ 21 – 1840, ông đỗ tú tài lần đầu(2).

Năm sau, triều đình  mở ân khoa để ghi năm đầu tiên niên hiệu Thiệu Trị, ông đỗ tú tài lần nữa. Hai năm sau ông đỗ Cử nhân khoa thi năm Quý Mão 1843 ở trường Hà Nội. Khoa Giáp Thìn 1844, tức năm Thiệu Trị thứ tư, ông ứng thí và đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Được khắc tên vào Bia Văn miếu ở Huế.

Văn bia ghi danh Tiến Sỹ khoa thi Hội năm Giáp Thìn niên hiệu Thiệu Trị  (1844)
Tên của ông khắc ở vị trí thứ 2
(Ảnh: Viện Hán Nôm)


Ngay tháng Chạp năm ấy, sau khi vinh quy bái tổ, ông vào kinh và làm Hàn Lâm Viện Tu Soạn, thăng làm Hành Tẩu ở sở Bản Chương trong Nội Các. Tháng Giêng năm Thiệu Trị thứ 6, bổ làm Tri phủ Ninh Thuận và được vua cho đổi tên Văn Phú thành Định Giản.

Năm đầu Tự Đức – 1848 vua Tự Đức cho triệu ông về kinh làm Binh Khoa Cấp Sự Trung và lần lượt trải các chức vụ Quang Lộc Tự Khanh, rồi sung Kinh Diên khởi cư chú, là chức quan chuyên lo việc ghi chép những điều giảng bàn của vua và các quan ở lầu Kinh Diên(3).

Ông từng viết bài ứng chế cho vua Tự Đức, góp ý khi vua vắng mặt trong những lần học đạo thánh hiền tại tòa Kinh Diên, với lời văn khúc chiết mà thẳng thắng hợp lý, vua khen là con cháu bậc danh thần có truyền thống, nên lo giữ mình thanh bạch, thận trọng, có phong cách bậc tướng thần đời xưa. Sau ông được bổ Hàn lâm viện thị giảng học sĩ, vào làm việc Nội các, từng theo vua đến những nơi hành cung. Trong thời gian này, ông được nhà vua cho đổi tên lần nữa (Định Giản trở thành Tư Giản).

Trong bài ứng chế viết cho vua Tự Đức năm 1853, ông nêu lên sáu cái tệ lớn của quan lại đương thời, mà nhức nhối hơn cả là nạn tham nhũng và hiện tượng quan viên ngồi chơi, tức là kẻ nhàn tản quá nhiều trong cơ quan chính quyền(4).

Năm 1859, quân Pháp tiến đánh Gia Định và năm sau, tổng chỉ huy lực lượng liên minh Pháp-Tây Ban Nha tại Việt Nam cử phái viên đến quân thứ Gia Định đưa bản dự thảo hòa ước gồm 11 khoản. Quá nửa triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ tỏ ra bối rối, muốn cắt đất cầu hòa. Được tin này, Nguyễn Tư Giản dâng sớ lên vua, trong đó phân tích kỹ lý do vì sao không nên giảng hòa với giặc, mà cần kiên trì kháng chiến để bảo toàn lãnh thổ và giữ cho được chủ quyền đất nước trước cuộc xâm lăng của Pháp.

Năm Tự Đức thứ 13 – 1860, nhà vua thăng lên làm Lại Bộ Hữu Thị Lang, sung làm Hiệp Lý Đê Chính Sự Vụ, kiêm việc khơi mở con sông Thiên Đức (tức sông Đuống chảy qua vùng Bắc Ninh). Con sông đào xong, nước chảy thông thoáng, dân được nhờ, nhưng riêng ông thì bị đền mấy vạn quan vào kho, vì khi khởi công, ông đã dự trù một khoản tiền ít đi, cốt để nhà vua không ngại mà cho ông được thực hành sở kiến của mình, nhưng có điều là ông đã dự trù ít quá!

Năm Tự Đức thứ 14  – 1861, Nguyễn Tư Giản xin phép về thăm quê. Bấy giờ sông Nhị Hà hàng năm luôn bị vỡ đê, những thuyết về bỏ đê, đắp đê không đến chỗ thống nhất. Vua vời ông đến dụ rằng: Lần đi này cần nhớ lấy việc trị thủy hôm nọ, hỏi han xem xét cẩn thận sao tìm được chước tốt nhất để hồi tâu. Đến tháng 8, khi trở lại phục mệnh, ông dâng sớ cực lực nói về cái hại bỏ đê và nhân dịp này ông đề xuất 10 điều về công việc trị thủy như sau:

1/ Đắp đê ở bờ biển để ngăn nước mặn. 2/ Nạo vét cửa biển để khỏi ứ đọng sỏi cát. 3/ Xây các đập để ngừa lúc nước lên to bất ngờ. 4/ Đào các sông nhánh để giữ dòng chính. 5/ Khơi các dòng cũ để phân tán sức nước lũ. 6/ Lấp các nguồn nước đọng để khỏi đọng bùn cát. 7/ Dự trữ tiền gạo để có sẵn chi phí. 8/ Trả tiền công hậu cho những người làm đê. 9/ Mở rộng việc quyên tiền để giúp cho những người trị thủy. 10/ Đặt ngạch dân đinh chuyên trách coi sóc đê điều, chống lụt.

Vua Tự Đức xem xét, rồi chuyển xuống cho các bộ liên quan để cùng bàn bạc thực hiện. Mặc dù ông và các cộng sự có nhiều cố gắng, nhưng các năm sau vẫn có chỗ vỡ đê, khiến nhà vua không hài lòng.

Năm Tự Đức thứ 15, gặp lúc giặc Nguyễn Văn Thịnh 阮 文 盛 (tức Cai Tổng Vàng) và Tạ Văn Phụng 謝 文 奉 mạo xưng con cháu nhà Lê tên tức Lê Duy Phụng 黎 維 奉 nổi lên đánh phá các vùng phủ Lạng Giang, huyện Yên Dũng, và vây thành Bắc Ninh Hải Dương (thường gọi là giặc biển). Vua xuống chiếu sai ông làm Tham Tán Quân Vụ giúp Tổng Đốc Quân Vụ Trương Quốc Dụng 張 國 用 đi dẹp giặc. Sau đó thì bọn giặc lan tràn, đánh chiếm thành Hải Dương. Trương Quốc Dụng bị Tạ Văn Phụng bắt sống. Triều đình luận tội rằng Tham Tán vô lực để đến nỗi quân đổ thành mất, Tổng đốc bị bắt. Ông bị ghép ông tội, cách tuột cả chức tước, bắt đi tiền quân hiệu lực lập công chuộc tội.

Em ruột ông là Nguyễn Năng Ái 阮 能 藹 bấy giờ đang là Tri phủ Diễn châu, cũng xin theo anh đi đánh giặc. Ông đánh tan cánh quân Tạ Văn Phụng ở An Thái, nhưng công ấy chỉ đủ chuộc tội chứ không được gì. Sau này triều đình bổ sung các đạo quân Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương 阮 知 方 và Đốc binh Ông Ích Khiêm 翁 益 謙 chỉ huy tiến đánh, cuối cùng Cai Tổng Vàng Nguyễn Văn Thịnh bị trúng đạn chết, Tạ Văn Phụng bị bắt sống giải về Huế. Giặc tan ông về dạy học ở làng Đôn Thư huyện Thanh Oai.

Hai năm sau, năm Tự Đức thứ 18 – 1865, ông được khởi phục làm chức Tu soạn, rồi dần dần thăng lên chức Tập hiền viện Thị độc, sau đổi sung Hồng lô thiếu khanh Biện lý Hộ bộ.

Đến năm Tự Đức 21 – 1868, ông được vua chọn đi sứ ở Bắc Kinh. Sứ đoàn do Lê Tuấn 黎 峻 làm Chánh sứ, ông và Hoàng Tịnh làm Phó sứ. Mọi biểu sớ giấy tờ quan trọng đều do ông thảo. Qua chuyến đi sứ Thanh, Nguyễn Tư Giản hiểu biết thêm về tình hình Trung Quốc, Nhật Bản và tình hình các châu lục, năm ấy là  năm đầu Minh Trị ở Nhật Bản. Trong thời kỳ này, Nhật Bản bắt đầu công cuộc hiện đại hóa để vươn đến vị thế cường quốc trên thế giới.

Vẫn kiêm lĩnh công việc Nội các sau khi đi sứ về, Nguyễn Tư Giản học hỏi được nhiều điều, biết rõ cả việc duy tân ở nước Nhật, ông cùng với Nguyễn Trường Tộ 阮 長 祚, Hoàng Phan Thái, Bùi Viện dâng sớ lên vua Tự Đức đề nghị một chương trình canh tân tự cường, như cho mở rộng bang giao với các nước phương Tây, gửi học sinh ra nước ngoài du học v.v… Vua Tự Đức yêu trọng ông về văn thơ, nhưng trong việc này nhà vua không nghe theo, dù vậy ông cùng các đồng liêu được nhiều người đương thời xem trọng.

Năm Tự Đức thứ 24 – 1871, con ông là Nguyễn Kham 阮 堪, sinh năm Giáp Thìn 1844, đỗ Cử nhân (Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân), chỉ sau Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Nguyễn Khuyến 阮 勸. Nguyễn Kham từng đỗ Giải nguyên năm Canh Tý – 1860. Sau này giữ các chức Án sát Bình Định, Tham biện Nội các.

Ghi chép của Viện Hán Nôm về Cử nhân Nguyễn Kham

Năm Tự Đức thứ 25 – 1872, Nguyễn Tư Giản được thăng Thị lang bộ Lại kiêm phó Tổng tài Quốc sử quán. Ở chức vụ này, ông đã tham gia biên soạn và xét duyệt bộ sử lớn của nhà Nguyễn là Việt Sử Thông Giám Cương Mục, rồi được bổ chức Thượng thư bộ Lại sung Cơ mật viện đại thần. Mùa hạ năm ấy, ông được đình thần cử sung chức Chánh sứ qua Pháp cùng Nguyễn Trường Tộ (chuyến đi này sau đó bị hủy), nhưng ông lấy lý do bệnh tật sức yếu, xin thoái thác vì ông không tán thành chủ trương giải hòa với Pháp. Thực ra không đợi tới lúc này mà trước đó 14 năm, khi Pháp tấn công Đà Nẵng, rồi đánh chiếm Gia Định tháng 2 năm 1859, giữa lúc Trương Đăng Quế 張 登 桂 và Phan Thanh Giản 潘 清 簡 là hai viên quan đứng đầu triều đã có chủ trương giảng hòa, lúc ông đang làm Đê sứ ở Bắc Kỳ đã gửi sớ về triều bày tỏ chính kiến với chủ trương này như đã nói ở trên.

Tháng 10 mùa đông, bốn tỉnh Bắc kỳ hữu sự, Nguyễn Tư Giản cùng với Binh bộ Trần Tiễn Thành, Hộ bộ Phạm Phú Thứ, Lễ bộ Lê Bá Thận ngày đêm vào trực trù tính việc cơ mật trọng yếu. Vua ban khen.

Đến năm Ất Hợi – 1875 có một sự kiện làm ông lại bị mất chức, bởi trước đây ông đã cho một học trò tên Phan Văn Nhã vào làm thư lại. Sau đó, Nhã đã làm ấn giả, bảng Cửu phẩm giả. Vì cả tin, nên Nguyễn Tư Giản, Tham tri Nguyễn Văn Thúy, Thị lang Nguyễn Mậu Đạo đều điềm nhiên ký tên và đóng dấu vào. Việc bị phát giác tâu lên, vua giao cho Pháp ty chiếu luật định án. Án dấu giả khởi từ tháng Bảy đến tháng Chạp năm này. Kết quả ông bị cách tuột chức tước bị đưa ra làm Sơn Phòng Sứ ở Chương Mỹ (nay thuộc Hà Nội) khai khẩn ruộng hoang để chuộc tội. Ông lại về dạy học và làm ruộng đọc sách và ngâm thơ, do vậy ông có thêm hiệu mới là Thạch Nông 石 農.

Ba năm sau, năm Tự Đức thứ 31 – 1878, nhân dịp lễ Ngũ tuần đại khánh, vua ân xá cho Nguyễn Tư Giản được về triều phục chức, chuẩn cho chức Hàn lâm thị giảng học sĩ, sung chức Quản viện. Trong thời gian này, ông biên soạn và sáng tác được nhiều tác phẩm có giá trị cho đời sau, nhiều bài điều trần mang tư tưởng duy tân tiến bộ.

Cũng thời kỳ này trong nước xảy ra nhiều biến động. (4 tháng 3 vua, Hòa ước Pháp – Thanh…) Sau biến cố tại Kinh thành Huế xảy ra vào đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu – 1885, vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng chạy ra Tân Sở, Quảng Trị, vua Đồng Khánh lên thay, Nguyễn Tư Giản được cử giữ chức thị lang bộ Hộ, nhưng sau đó ông cáo ốm xin về nghỉ.

Đến năm đầu Đồng Khánh – 1886, Bắc Kỳ kinh lược sứ Nguyễn Trọng Hợp mời một số danh sĩ ra làm việc. Vua bảo rằng: Tư Giản là bậc lão thần của tiên triều, chuẩn cho thực thụ tổng đốc. Từ chối mãi không được, Nguyễn Tư Giản phải ra làm Tổng đốc Ninh-Thái (Bắc Ninh-Thái Nguyên). Ông tại chức được 1 năm.

Tháng 3 năm 1887, vua Đồng Khánh trích công quỹ một ngàn đồng Đông Dương để chính phủ Pháp mua đồng đúc tượng Toàn quyền Paul Bert. Nhân đó, các quan trong Nha Kinh lược Bắc Kỳ là Nguyễn Hữu Độ và Nguyễn Chính cũng bày ra chuyện lạc quyên ở các tỉnh để góp thêm tiền mua đồng. Thế nhưng, các quan chức ở tỉnh Ninh-Thái không quyên góp một đồng nào. Lập tức, Nha Kinh lược tâu lên vua, xin cho tra vấn và đổi chức. Thuận theo yêu cầu, vua Đồng Khánh cho Nguyễn Xuân Duẩn đến thay, ông bị triệu về Nha Kinh lược xét hỏi.

Bị tra vấn, Nguyễn Tư Giản biện giải rằng: Việc này, không do chỉ dụ nhà vua giao trách nhiệm cho cả ba kỳ. Chỉ riêng Nha Kinh lược Bắc Kỳ định ra, các Tổng đốc không được dự bàn thì không trách cứ được. Việc quyên góp là việc làm tự nguyện, pháp luật cũng không ràng buộc, các quan chức Ninh-Thái hiện nay đang rất túng quẫn, không thể có tiền góp sang nước Pháp.

Sau đó, Nguyễn Tư Giản xin từ quan, về ẩn thân dạy học ở Phát Diệm (thuộc Ninh Bình) cho đến năm Canh Dần – 1890 thì mất tại đây, thọ 68 tuổi.

Nguyễn Tư Giản làm quan từ khi còn trẻ tuổi, trải qua những chức vụ trọng yếu hơn 40 năm trong triều với nhiều gian truân thử thách, ba lần bị cách chức, có lúc xung trận, lúc về làm ruộng nhưng những điều ông nghĩ, những việc ông làm xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân bộc lộ rõ trong những bản điều trần hùng hồn, vẫn giữ tấm lòng trung trinh trong sáng cho đến khi về già. Mỗi khi triều đình có những cuộc bàn luận lớn lao về những vấn đề khó khăn của đất nước, thì phần nhiều ông được dự bàn bạc rồi soạn ra. Dù thăng trầm trên quan lộ, có lúc ngang tàng, có lúc nản chí cáo ốm, nhưng vẫn để lại nhiều tác phẩm(5) gồm nhiều thể loại, để lại những tư tưởng canh tân, rất nhiều tập thơ, khảo cứu lịch sử của ông là những cống hiến lớn trong thời đại nhà Nguyễn, là những những nét đẹp về tấm lòng, về nhân cách, về bản lĩnh của ông đáng được ghi nhận, tưởng nhớ để trân trọng học tập.

Chú thích:

(1) Theo nhà văn Nguyễn Triệu Luật (1903-1946, là cháu nội của Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản), thì tên ông cố của mình là Nguyễn Chí Quản.
(2) Năm này có một chuyện tình sử thú vị của ông, được nhà văn Nguyễn Triệu Luật ghi lại vào năm 1939, trong tác phẩm Ngược Đường Trường Thi.
(3) Kinh Diên là khóa học dành riêng cho vua, nghe các đại thần có trình độ học vấn cao bàn về các tác phẩm kinh điển nhằm bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực quản lý đất nước.
(4) Nguyễn Tư Giản viết: … Đất chỉ vừa một huyện thì bày ra thành một tỉnh, đất chỉ vừa một tổng thì bày ra thành một phủ, đất chỉ vừa một ấp thì bày ra thành một huyện, số quan lại văn võ trong và ngoài triều đình ăn lương Nhà nước do vậy trở nên quá đông. Quan nhiều thì công việc không thể không rối rắm, mà công việc đã rối rắm thì dân không thể không oán trách, ấy là cái nạn “nhũng viên”, tức là kẻ nhàn tản quá nhiều trong cơ quan Nhà nước… Nay, trong thì các nha thuộc sáu bộ, ngoài thì tỉnh, phủ, châu, huyện cho đến dinh, vệ, bảo, suất, số viên chức lên tới hàng vạn, bệ hạ có chắc họ đều trong sạch cả không? Lương cấp cho họ liệu có đủ để trên thì phụng dưỡng cha mẹ, dưới thì nuôi nấng vợ con không? … Với cảnh lương bổng ít ỏi như hiện nay mà ngày nào cũng yêu cầu quan lại phải thanh liêm, thì khác nào ngựa nuôi trong chuồng, rơm cỏ không cho ăn đủ mà đòi trở thành thiên lý mã, cây trồng vừa mới lớn, nước nôi không tưới đều mà đòi trở thành danh mộc to mấy sải ôm. Trong khi đói rét bức bách, hình pháp đốc thúc, triều đình đãi ngộ nhân tài một cách vô liêm sỉ như vậy thì quan lại làm sao không tham nhũng, dân chúng làm sao không khốn khổ?…
(5) Một số tác phẩm của ông:
– Hà Phòng Tấu Nghị
– Yên Thiều Thi Thảo
– Yên Thiều Văn Thảo
– Trung Châu Quỳnh Dao Tập
– Tiểu Tuyết Sơn Phòng Cổ Lục
– Hà Phòng Tấu Nghị
– Nguyễn Tuân Thúc Thi Tập
– Sử Lâm Kỷ Yếu
– Thạch Nông Toàn Tập
– Thạch Nông Tùng Thoại
– Thạch Nông Thi Văn
– Vân Điềm Du Lâm Nguyễn Tộc Hợp Phả
– Liễu Đường Biểu Thảo
– Như Thanh Nhật Ký
– Phụng Tương Vũ Lược Ẩn Dật Thần Tiên Liệt Nữ
(Cùng nhiều tác phẩm bị thất lạc).

Tài liệu tham khảo:

– Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỷ.
– Đại Nam Liệt Truyện Tập 4 : Chính Biên – Nhị Tập
– Ngược Đường Trường Thi (NTL)

……………………o0o……………………

Quoc Lien