Chúa húy là Nguyễn Phúc Khoát (阮 福 濶), sinh ngày 18 tháng 8 năm Giáp Ngọ (26.9.1714) còn húy là Hiểu (曉), là vị chúa Nguyễn thứ tám trị vì Đàng Trong từ năm 1738 đến 1765.
Năm Mậu Ngọ 1738, Chúa Ninh húy Nguyễn Phúc Thụ băng hà, Ngài là con trai trưởng, lúc đó 24 tuổi nối ngôi. Cũng năm đó, nương vào câu sấm Bát Thế Hoàn Trung Đô 八 世 還 中 都 (*) Chúa cho dời phủ từ làng Bác Vọng ở dọc theo sông Bồ về khởi công kiến thiết phủ mới, là đô thành Phú Xuân (nơi đây đã được giữ nguyên làm Kinh đô của nước ta từ đó cho đến năm 1945).
Năm Canh Thân 1740, Ngài định lại phép thi cử. Những người đậu kỳ thi thứ nhất gọi là Nhiêu Học, được miễn sai dịch 5 năm, đậu kỳ thi thứ nhì và thứ ba thì được miễn sai dịch suốt đời, đậu kỳ thi thứ tư gọi là Hương Cống, được bổ làm Tri phủ, Tri huyện.
Năm Giáp Tý 1744, nhân có cây sung nở hoa, mọi người coi đó là điềm lành, và Đàng Trong bấy giờ đã rất vững mạnh, nên theo lời thỉnh cầu của các quan, ngày 23 tháng 5 năm 1744 Ngài xưng vương hiệu là Võ Vương (武 王), hay Chúa Võ (主 武), Đạo hiệu là Từ Tế Đạo Nhân (慈 濟 道 人). (lúc bắt đầu nối ngôi chỉ tự xưng là Thái Bảo Quận Công 太 保 郡 公).
Một trong những việc được Võ Vương thi hành đầu tiên là xây dựng tông miếu và truy tôn tước hiệu các bậc Tiên Vương, cho đúc Quốc Vương Chi Ấn (國 王 之 印), đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc khẳng định vị thế độc lập của Đàng Trong so với Đàng Ngoài. Chia nước ra làm 12 dinh, dinh nào cũng đặt quan Trấn thủ, Cai bạ, hoặc Ký lục để coi việc cai trị.
Chúa cho lập bộ máy hành chính làm 6 bộ, đổi Ký Lục thành bộ Lại, Đô Trí thành bộ Hình, Vệ Úy thảnh bộ Lễ, Cai Bộ thành bộ Hộ, thiết lập mới bộ Binh và bộ Công, đổi Văn chức làm Viện Hàn Lâm, đổi Phủ thành Điện, sửa sang phép tắc, những gì trình lên vua gọi là tấu, Thân quân gọi là Võ Lâm Quân.
Về võ bị thì chúa cho lập trường chế tạo súng, chú trọng xây dựng quân đội, ban hành nhiều quy định và tuyển chọn những người tài năng vào quân sự. Về giao thiệp với Tiêm La thì năm Canh Ngọ 1750, Võ Vương sai quan đem thư sang trách nước Tiêm La dung túng kẻ nghịch thần để làm loạn nước Chân Lạp. Năm Ất Hợi 1755, vua Tiêm La sai sứ sang xin đừng đánh thuế những thuyền của nước ấy sang buôn bán ở nước ta, Chúa đáp thư lại rằng thuế ấy là quốc lệ đã đặt ra không thể bỏ đi được.
Để tiện việc tiêu dùng, Chúa cho mở cục đúc tiền tiền kẽm ở Lương Quán, đây có lẽ là lần đầu tiền kẽm được lưu hành tại nước Nam, từ đó tiền của lưu thông, công tư đều tiện. Về văn thư vẫn dùng niên hiệu vua Lê nhưng đối với các thuộc quốc thì xưng là Thiên vương. Con trưởng của chúa được gọi Đại Công tử, những con khác thì Công tử theo thứ bậc.
Từ “Mụ” hay “Mệ” hiện nay trong ngôn ngữ giao tiếp vẫn còn dùng cho nam giới, như một nét riêng của Nguyễn Phước Tộc là xuất phát từ thời Chúa Võ, thời này do sinh con khó nuôi, hay mất sớm nên có lệ đổi trai thành gái trong Hoàng tộc triều Nguyễn.
Đặc biệt, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã ban hành sắc dụ về y phục, cho toàn thể dân chúng và quan lại xứ Đàng Trong, của cả nam lẫn nữ phải theo màu sắc và hình dáng được quy định. Dấu mốc quan trọng của trang phục áo dài Việt Nam bắt đầu định hình từ đây. Qua nhiều thời gian tiến triển cho đến nay, sắc dụ của đức Võ Vương ban hành thực sự là một cuộc cải cách lớn về y phục, đây cũng là tiền đề để chiếc áo dài ngũ thân được phổ biến rộng rãi đến ngày nay.
Sách Đại Nam Thực Lục – Tiền Biên, quyển 10 chép:
“…Các hoàng tử vẫn xưng là công tử, con trưởng là đại công tử, sau theo thứ tự mà xưng. Lại vì sinh khó nuôi, cho nên con trai thì gọi là gái, mà con gái thì gọi là trai… Chúa cho rằng lời sấm có nói: “Tám đời trở lại Trung đô”, bèn đổi y phục, thay phong tục, cùng dân đổi mới, châm chước chế độ các đời, định triều phục văn võ (văn từ chức quản bộ đến chiêm hậu, huấn đạo, võ từ chưởng dinh đến cai đội, mũ sức vàng bạc, áo dùng mãng bào hoặc gấm đoạn, theo cấp bậc). Thế là văn vật một phen đổi mới…”
Năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) sau khi bị chúa Nguyễn Phúc Khoát đánh bại đã dâng vùng đất Tầm Bôn và Lôi Lạt (Tân An, Gò Công) để chuộc tội.
Năm 1759, vua Nặc Nguyên mất, chú là Nặc Nhuận dâng 2 xứ Preah Trapeang và Basac (vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng) để được chúa Nguyễn Phúc Khoát phong làm vua Chân Lạp. Sau khi Nặc Nhuận mất, Chúa đã hỗ trợ Nặc Tôn (Outey II) lên ngôi và bảo vệ trước sự tấn công của Xiêm La, vua Nặc Tôn đã dâng vùng đất ngày nay là Châu Đốc, Sa Đéc cho Chúa. Chúa bèn sai Trương Phúc Du và Nguyễn Cư Trinh đem dinh Long Hồ về xứ Tầm Bào (địa phận Vĩnh Long ngày nay) và lại đặt ra 3 đạo là Đông Khẩu Đạo ở Sa Đéc, Tân Châu Đạo ở Tiền Giang và Châu Đốc Đạo ở Hậu Giang.
Cùng năm đó, riêng Mạc Thiên Tứ được Nặc Tôn dâng 5 phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Võ Vương bèn lập ra đạo Kiên Giang ở Rạch Giá, đạo Long Xuyên ở Cà Mau, sáp nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản. Bấy giờ chính thức hoàn thành cuộc Nam tiến.
Thời chúa trị vì, thành quả lao động của nhân dân được củng cố và bảo vệ, thông qua các biện pháp quân sự, đóng quân đồn trú làm chỗ dựa cho dân chúng, phiến loạn thì dẹp, xâm lấn thì trị, kết hợp ngoại giao với quân sự để tạo thành quả, và cuối cùng toàn bộ đất đai khai phá được sáp nhập vào cương vực nước ta. Đáng tiếc là vào thời kỳ lãnh thổ Việt Nam đã được định hình, tình hình kinh tế xã hội đã ổn định, do cuộc sống an bình thịnh vượng, không có gì phải lo nghĩ, hay đối phó, Võ Vương sinh lơ là việc triều chính, khiến quyền thần Trương Phúc Loan (**) có cơ hội lộng hành, tạo nên mối loạn về sau, đưa đến sự sụp đổ của một triều đại, khởi đầu cho một thời kỳ ly loạn, gian truân hơn 1/3 thế kỷ của triều Nguyễn sau này, khiến cơ đồ phải rơi vào tay người khác.
Ngày 20 tháng 5 năm Ất Dậu (7.7.1765), Chúa Võ băng hà, hưởng thọ 52 tuổi, ở ngôi 27 năm, an táng tại lăng Trường Thái (長 泰 ) thành phố Huế. Năm Bính dần (1806), vua Gia Long truy tôn: Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu Vũ Hoàng Đế (乾 剛 威 斷 神 毅 聖 猷 仁 慈 睿 智 孝 武 皇 帝) Miếu hiệu là Thế Tông (世 宗). Hậu của Chúa là bà Trương Thị Dung, được truy tôn làm Thế Tông Hiếu Võ Hoàng Hậu (世 宗 孝 武 皇 后), tên lăng là Vĩnh Thái (永 泰). Hoàng Hậu được hiệp thờ cùng Chúa ở án tả tứ (án thứ 4 bên trái), tại Thái Miếu trong Đại Nội – Huế.
Đức Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế sinh được 18 công tử và 12 công nữ, là người khai sáng ra Hệ 9 Tiền biên thuộc Nguyễn Phước tộc.
Hôm qua, sau lễ Cáo ở lăng mộ là Lễ Tiên Thường, hôm nay là Lễ Chánh Kỵ kỵ lần thứ 260 của Ngài, 20.5 Ất Dậu (1765) – 20.5. Ất Tỵ 2025).
Lễ Húy Kỵ này luôn trùng ngày Lễ Húy Kỵ của Đức Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế, vì trước đó tròn 220 năm là ngày băng của Đức Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế (20.5.Ất Tỵ 1545 – 20.5. Ất Tỵ 2025).
Tri ân đức Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát là nội tổ của Hoàng Đế Gia Long. Người có nhiều công lao trong việc xây dựng và phát triển Đàng Trong với việc xưng vương, cải cách hành chính, quân sự, phát triển kinh tế, định hình non sông Việt Nam hình chữ S và là người có công định chế một bản sắc văn hóa tinh tế, một vẻ đẹp trường tồn: Áo Dài Việt Nam.
Ghi chú:
(*) Bát thế hoàn trung đô (八 世 還 中 都 – tám đời thì trở lại trung đô) Từ đời Chúa Tiên đến Chúa Võ vừa đúng 8 đời. Theo quan niệm như vậy và sự suy tôn của quần thần, nên đức Võ Vương đã lên ngôi năm 1744 để tỏ rõ tinh thần độc lập, tự chủ xứ Đàng Trong.
(**) Trương Phúc Loan (張 福 巒) là con thứ của Thái bảo Quốc công Trương Phúc Phan (khác với cha mình là Trấn thủ dinh Trấn Biên, người từng có công lao đánh đuổi quân Anh ra khỏi đảo Côn Lôn trong những năm đầu thế kỷ XVIII), ông ta cũng là cậu ruột của đức Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát, là một quyền thần cuối thời các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Trong hơn mười năm cầm quyền, Trương Phúc Loan đã lạm dụng quyền hành vì lợi ích cá nhân, khuynh đảo chính sự ở Đàng Trong, cuối cùng cũng tán gia bại sản, bị bắt và chết trên đường đi chịu tội. Ông ta là nguyên nhân chính, khiến chính quyền các Chúa Nguyễn sụp đổ.
