
Chúa Tiên húy Nguyễn Hoàng 阮 潢 , sinh ngày 28.8.1525 (10.8.Ất Dậu), là con thứ hai của đức Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế Nguyễn Kim và Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Hậu Nguyễn Thị Mai. Thuở nhỏ, lúc đức Triệu Tổ cầm đầu cuộc Trung hưng nhà Lê, chinh chiến tận Ai Lao, Ngài được cậu ruột là Nguyễn Ư Dĩ (1) nuôi dạy chu đáo từ năm lên 2 tuổi.

嘉 隆 三 年 吉 月 日 造
Triệu Tổ Miếu
Gia Long tam niên cát nguyệt nhật tạo.
(Miếu Triệu Tổ
Tạo tác vào ngày tháng tốt năm Gia Long thứ 3 – 1804)
Bức hoành phi trong gian giữa Triệu Tổ Miếu – Đại Nội – Huế nơi thờ phụng Long vị các Chúa Nguyễn (trong lúc chờ Thái Tổ Miếu sùng tu).
Năm 21 tuổi (1545), Ngài cùng anh ruột là Lãng Quận Công Nguyễn Uông theo giúp nhà Lê diệt Mạc, do có công lao, nên từ Hạ Khê Hầu Ngài được phong tước Đoan Quận Công. Sau khi đức Triệu Tổ mất, anh trai lại bị Trịnh Kiểm mưu hại, Ngài được tư vấn kế sách từ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, với câu nói nổi tiếng: Hoành Sơn Nhất Đái Vạn Đại Dung Thân (Một dải núi ngang có thể dung thân được muôn đời), nên nói với chị là Ngọc Bảo vợ Trịnh Kiểm để xin cho vào trấn thủ xứ Thuận Hóa.(2)
Sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên chép: “Ngài có tướng vai lân, lưng hổ, mắt phượng, trán rồng, thần thái khôi ngô, thông minh tài trí, người thức giả đều biết là bậc phi thường”.
Năm 1558, lúc 34 tuổi, được sự chấp thuận của vua Lê Anh Tông và Trịnh Kiểm, Ngài vào Thuận Hóa nhậm chức Trấn Thủ, cùng các tướng và hàng nghìn đồng hương thân tín Thanh Nghệ, Ngài lập dinh Ái Tử ở Quảng Trị.
Miền đất Thuận Hóa lúc bấy giờ thường được gọi là vùng “Ô châu ác địa”, còn hoang sơ và nghèo nàn, tạo điều kiện cho bọn cướp biển, giặc cỏ hoành hành, không những vậy, Ngài còn phải đối mặt với các lực lượng quân nhà Mạc, Chiêm Thành, Chân Lạp thường xuyên quấy nhiễu. Chinh phục mảnh đất này quả là một thử thách lớn. Vậy nhưng, ngay từ lúc mới đặt chân đến đây, đã hội tụ được yếu tố nhân hòa: Nhân dân địa phương hết sức vui mừng khi hay tin có một vị quan lớn vào trấn thủ xứ sở của mình, đã dâng lên 7 vò nước trong, với ý nghĩa hiến nước là điềm được nước, Lưu thủ Thuận Hóa Tống Phước Trị đã tìm đến để vái chào, dâng lên bản đồ và sổ sách trong xứ, xin được một lòng phò tá, bên cạnh còn có Uy Quốc Công Nguyễn Ư Dĩ, Thống Binh Mạc Cảnh Huống đồng tâm tận lực phò trợ, từ đây Ngài được tôn xưng ở ngôi vị Chúa Nguyễn. Mặc dù đương thời Ngài chỉ được vua Lê phong làm Thái Úy Đoan Quận Công, nhưng do những công việc an dân, thu phục nhân tâm, mở mang ngoại thương v.v… bằng tài lãnh đạo và lòng nhân đức, nên dân chúng Thuận Hóa rất cảm mến, họ gọi Ngài là Tiên Chúa, Tiên Vương hay Chúa Tiên (3)
Năm 1560, Chúa cho đặt đồn cửa biển giữ miền duyên hải, do bấy giờ quân Mạc thường theo đường biển vào đánh phá xứ Thanh Nghệ nên phải đề phòng.
Mười năm trấn nhậm với chính sách rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nên nhân dân được an cư lạc nghiệp, ở chợ có giá nhất định, trong dân không có trộm cướp, đêm ngủ không phải đóng cổng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến buôn bán, việc giao dịch phân minh, toàn cõi yên vui làm ăn. Mỗi năm đều nộp thuế khóa đủ dùng về việc quân, Chúa được triều đình tin cậy.
Năm 1569, Chúa ra Thanh Hoa yết kiến vua Lê Anh Tông, nộp quân lương giúp triều Lê đánh nhà Mạc, rồi đến phủ mừng Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hài lòng, phong cho Chúa trấn thủ luôn đất Quảng Nam, đổi quan trấn thủ cũ là Nguyễn Bá Quýnh ra Nghệ An. Từ đây Chúa toàn quyền cai trị xứ Thuận Quảng.
Để chuẩn bị cho một bờ cõi riêng, một mặt Chúa lo xây dựng mở mang miền Nam thêm trù phú vững vàng, mặt khác không quên tỏ ra trung thành với nhà Lê để tránh sự nghi ngờ của họ Trịnh.
Qua đầu năm 1570, Chúa dời dinh đến làng Trà Bát, thuộc huyện Đăng Xương.
Tháng 7 năm Tân Mùi 1571, một nhóm giặc ở Quảng Bình cấu kết với họ Trịnh ở ngoài Bắc nổi loạn chống phía Nam (ở Gio Linh và Hải Lăng ngày nay). Chúa Tiên biết được, liền sai phó tướng Trương Trà đem quân nghênh chiến, Trương Trà bị quân giặc bắn chết. Nghe tin, vợ Trương Trà (là người họ Trần) nổi giận cưỡi voi nghênh chiến, bắn chết tướng giặc tại trận, cứu Chúa thoát nguy, quân phiến loạn thua chạy. Chúa thu quân về phong cho bà là Trà Quận Công Phu Nhân, sau này bà được vua Thế Tổ xếp vào bậc Khai Quốc Công thần hàng Nhị đẳng, đây là bậc nữ Khai quốc Công thần duy nhất của triều Nguyễn.
Năm Nhâm Thân 1572, sau khi Trịnh Kiểm mất (1570), lợi dụng lúc Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau giành ngôi vị, nhà Mạc đem quân vào đánh Thanh Hóa và sai tướng là Lập Bạo đem quân vào đóng ở làng Hồ Xá và làng Lạng Uyển (thuộc huyện Minh Linh) để đánh phá, Chúa dùng Ngô thị làm mỹ nhân kế tiêu diệt Lập Bạo, quân giặc đem nhau đầu hàng, Chúa cho ở đất Cồn Tiên ở gần cửa Tùng, Quảng Trị đặt làm 36 phường, từ đó nhà Mạc không dám nhòm ngó đất Thuận Quảng nữa và chỉ còn kiểm soát khu vực phía Bắc (4).
Năm Ất Dậu 1585, có tướng giặc nước Tây Dương hiệu Hiển Quý (là tên hiệu của bọn tù trưởng phiên) đi 5 chiếc thuyền lớn, đến đậu ở Cửa Việt để cướp bóc ven biển. Chúa sai Công tử Nguyễn Phước Nguyên lĩnh hơn 10 chiếc thuyền, tiến thẳng đến cửa biển, đánh tan 2 chiếc thuyền giặc. Hiển Quý sợ chạy. Chúa rất mừng nói rằng: “Con ta thực là anh kiệt”, và thưởng cho rất hậu. Từ đó giặc biển im hơi.
Tháng 5 năm Nhâm Thìn 1592, Chúa đem binh quyền ra Đông Đô giúp vua Lê, Chúa Trịnh Tùng (vị chúa thứ 2 của họ Trịnh, đồng thời là cháu gọi Ngài bằng cậu ruột) đánh đuổi họ Mạc, tái chiếm Thăng Long. Trong thời gian ở đây 8 năm, Chúa đánh dẹp toàn thắng và thu phục các nơi như Trấn Sơn Nam (nay là Nam Định), Hải Dương, Thái Nguyên, các huyện thuộc Sơn Tây v.v… vì có công lớn, nên bị Trịnh Tùng ganh ghét, không cho về trấn.
Tháng 10 năm Kỷ Hợi 1599, vua Lê Thế Tông băng, vua Lê Kính Tông lên ngôi, tấn phong Chúa làm Hữu Tướng.
Mùa hạ năm 1600, Chúa lấy cớ đi dẹp các tướng nhà Lê (Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm, Bùi Văn Khuê) chống họ Trịnh ở cửa Đại An (nay thuộc Nam Định), Chúa đã đem tướng sĩ dưới quyền tiến đánh, rồi đi đường biển thẳng về Thuận Hóa, để con trai thứ năm và các cháu nội ở lại làm con tin.
Trở lại Thuận Hóa, Chúa cho dời dinh sang phía đông dinh Ái Tử, bấy giờ gọi là Dinh Cát. Sợ họ Trịnh nghi ngờ, Chúa gửi thư cho Trịnh Tùng hẹn kết nghĩa thông gia. Tháng 10 năm 1600, Chúa gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, con trưởng của Trịnh Tùng. Từ đó quyết tâm xây dựng Đàng Trong thành một quốc gia độc lập với họ Trịnh, củng cố phát triển, phòng bị và mở mang bờ cõi để đợi thời cơ dựng nền độc lập, Chúa không bao giờ quay lại Đàng Ngoài nữa.
Các năm về sau, ngoài việc xây dựng quân đội, phát triển kinh tế, Chúa còn chú trọng chấn hưng Phật giáo, dựng chùa Thiên Mụ bên bờ sông Hương, sửa sang và xây nhiều ngôi chùa khác trên vùng đất Thuận Quảng, xây nhiều kho tàng chứa lương thực phòng bị.
Năm Nhâm Dần 1602, Chúa cho lập dinh Thanh Chiêm (Quảng Nam) giao cho công tử thứ sáu là Nguyễn Phước Nguyên làm Trấn thủ, nhằm đề cao kinh tế ngoại thương để làm kệ đỡ cho chính quyền của mình. Ở đây được coi là một trong những thủ phủ lớn của Đàng Trong và đóng vai trò quan trọng đặc biệt về kinh tế và quân sự dưới thời các Chúa Nguyễn trị vì.
Năm 1611, Chúa sai quân đi đánh Chiêm Thành, lấy vùng đất phía Nam đèo Cù Mông lập ra Phú Yên mở đầu cho việc mở rộng lãnh thổ của các Chúa Nguyễn về sau.
Còn một khu vực được bổ sung vào lãnh thổ nước ta, không thể không nhắc đến, mà lịch sử không ghi rõ thời gian, chỉ biết hai gia tướng người Việt gốc Chăm là Vũ Thì An và Vũ Thì Trung đã giúp Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chiếm hữu Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa), lúc đó mới chỉ là một vùng đất vô chủ mà không một nước nào phản đối hay bảo lưu.
Ngày 1 tháng 5 năm Quý Sửu, Chúa Tiên không được khỏe, cho triệu Công tử thứ sáu của mình là Thụy Quận Công Nguyễn Phước Nguyên từ Quảng Nam về. Ngày mồng 3 tháng 6 năm Quý Sửu (20.7.1613), Chúa yếu mệt, gọi Thế Tử vào căn dặn: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, anh em phải thương yêu nhau. Con mà giữ được lời dặn đó thì ta không ân hận gì.” Chúa lại nói: “Đất Thuận Quảng, Bắc có Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, Nam có núi Hải Vân và núi Thạch Bi bền vững, núi sẵn vàng sắt, biển sẵn cá muối thật là đất dụng võ của người anh hùng. Vậy con phải biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không thể địch được thì cố giữ đất đai chờ cơ hội, đừng bỏ qua lời dặn của ta.”
Chúa cũng dặn với các cận thần lúc hấp hối bên giường bệnh: “Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng nên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông vui lòng giúp đỡ cho nên công nghiệp.” Thế tử và các thân thần khóc lạy vâng mệnh. Dặn dò xong Chúa băng, sau 55 năm cầm quyền (1558 – 1613), thượng thọ 89 tuổi.
Chúa được an táng tại Thạch Hãn, huyện Vũ Xương, sau thuộc huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị, sau này cải táng tại ở núi La Khê, tức Khải Vận Sơn, nay thuộc địa phận Hương Thọ, thành phố Huế, tên lăng là Trường Cơ.
Năm 1806 sau khi chính thức lên ngôi Hoàng Đế, vua Gia Long truy tôn Chúa là Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung Ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ Hoàng Đế 肇 基 垂 統欽 明 恭 懿 謹 義 達 理 顯 應 昭 祐 耀 靈 嘉 裕 皇 帝, Miếu hiệu là Thái Tổ 太 祖
Phu nhân Chúa, đức bà họ Nguyễn cũng được truy tôn là Từ Lương Quang Thục Minh Đức Ý Cung Gia Dụ Hoàng Hậu 慈 莨 光 淑 明 德 懿 恭 嘉 裕 皇 后. Lăng Vĩnh Cơ 永 基 陵 của Hậu, cũng tọa lạc tại Hương Thọ, thành phố Huế.
Trong lịch sử Việt Nam, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng xuất hiện một cách uy dũng với chiến công lừng lẫy thời Lê trung hưng, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên một bước ngoặt lớn của lịch sử đất nước – là người khởi đầu công cuộc mở rộng biên cương lớn nhất trong lịch sử về phía Nam, là vị Chúa đầu tiên khai sáng, đặt nền tảng cho việc xây dựng cơ nghiệp triều Nguyễn và đức Thế Tổ Gia Long Hoàng Đế là người hoàn thành quá trình thống nhất đất nước vào năm 1802.
Các giá trị vật chất và tinh thần mà Chúa Tiên đã mang lại cho dân tộc là những công lao to lớn, Chúa xứng đáng là Đấng Anh Hùng mở cõi vĩ đại.
Ghi chú:
(1) Trong Hán tự, chữ Dĩ ( 已 ) gần giống chữ Kỷ ( 己 ) nên có nhiều tài liệu ghi ngài tên là Nguyễn Ư Kỷ.
Là em của Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Hậu, nhưng Thái Phó 太 傅 Uy Quốc Công 威 國 公 Nguyễn Ư Dĩ 阮 於 已 được ghi tên và tiểu sử vào phần anh chị em của Đức Triệu Tổ trong Nguyễn Phước Tộc Thế Phả, có lẽ vì ân dưỡng dục Đức Thái Tổ và công lao Khai Quốc Công Thần của ngài.
(2) Xứ Thuận Hóa 順 化 lúc bấy giờ gồm các tỉnh Quảng Bình 廣 平, Quảng Trị 廣 治, Thừa Thiên 承天 và một phần Quảng Nam 廣 南 ngày nay, được nhà Lê Trung Hưng lấy lại từ tay nhà Mạc vào năm 1552.
(3) Lê Quý Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục (撫 邊 雜 錄) đã nhận xét về Chúa Tiên như sau:
“Đoan Quận Công có uy nghiêm lại có mưu lược, vừa sáng suốt, vừa kín đáo, không ai dám nói dối, cai trị ở hai xứ ấy hơn 10 năm, chính sự khoan hòa, có ơn huệ, dùng phép công bằng, nghiêm giữ quân sĩ có kỹ luật, cấm trấp kẻ hung bạo, đổi hết phong tục xấu, ai ai cũng cảm ơn mến đức, quân và dân hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam đều thân yêu tin phục…”
(4) Ngày 16.4.2025, các bậc cao niên làng An Nha, xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị đã long trọng tổ chức lễ động thổ, xây dựng đền thờ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng tại thôn An Nha. Đây là đền thờ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đầu tiên được xây dựng ở đất Quảng Trị tại địa điểm gốc từ hơn 400 năm trước. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, đồng thời thể hiện lòng tri ân sâu sắc của người dân Minh Linh xưa đối với vị Chúa nhân từ có công mở mang bờ cõi.
Sự thân yêu và tin phục này, thể hiện ở cách gọi Ngài là Chúa Tiên 主 僊, với chữ Tiên 僊 có nghĩa là tiên thánh, chứ không phải tiên 先 là trước, mặt dù Ngài là vị chúa trước tiên của Đàng Trong.
Nhân lễ huý kỵ lần thứ 412 và đặc biệt năm nay là tròn 500 năm, ngày sinh của bậc Anh Hùng mở cõi vỹ đại – (1525 – 2025)

N.P.Quoc Lien