Phủ thờ Đức Anh Duệ Hoàng Thái Tử hiện nay tọa lạc tại số 143, đường Hàn Mặc Tử, phường Vỹ Dạ, thành phố Huế, trước phủ thờ, ngoài cổng tam quan là dòng sông Như Ý uốn lượn hiền hòa.

Tiền đường 

Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí – Kinh Sư biên thảo dựa trên cơ sở của bộ Đại Nam nhất thống dư đồ (thảo xong vào năm Tân Dậu, 1861), tổng tài Cao Xuân Dục hoàn thiện năm 1910, (bản dịch của Cử nhân Hán học Tu Trai – Nguyễn Tạo in năm 1960) chép:

Đền Tăng Duệ Hoàng Thái Tử 增 睿 皇 太 子 祠 ở ấp Bình Lục huyện Phú Vinh, dựng vào năm Gia Long thứ 5 – 1806, tiền đường 5 gian, chính đường 3 gian 2 chái, nhà xuyên 穿 家 ở tả hữu đều 2 gian. Thờ Hoàng Thái Tử. Thái Tử tên húy là Cảnh , con trưởng Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Thái Tử nguyên thụy là Anh Duệ 英 睿 sau đổi tên này. Vua xét người có công nên tặng thụy hiệu, dựng viên tẩm, ngày tế xuân thu cùng ngày tế đền Tuyên Mục Nhị Vương 宣 穆 二 王 祠 (tức đền thờ chung của Tuyên Vương Nguyễn Phúc Hạo 阮 福 昊 và Mục Vương Nguyễn Phúc Dương 阮 福 暘 tại Long Hồ). Năm Quý Mùi, Minh Mạng thứ 4 – 1823 sửa chữa nhà thờ Anh Duệ. Năm Minh Mạng 13 – 1832 đem con ông là Thái Bình Công Kính 太 平 公 敬 phối tự. Năm Minh Mạng thứ 21 – 1840 vua ban cho một con kỳ lân vàng để thờ. Năm Đồng Khánh nguyên niên (1886) làm lại nhà ngói một toà 3 gian 2 chái.


Án thờ chính Đức Anh Duệ Hoàng Thái Tử

Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ lục kỷ – Quyển V. Thực Lục về Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế chép:

Năm Bính Tuất, Đồng Khánh năm thứ nhất 1886, tháng 12.
Lại dựng đền Hoàng Thái Tử Anh Duệ. Đền ấy năm trước đổ nát, phủ Tôn Nhân cho là gỗ thiếu, thợ ít, tâu xin chuẩn cho rước thần chủ đến thờ phụ vào án bên tả Hưng Miếu, mà đền cũ giao cho tự chủ (Tự chủ là người thừa tự lo việc thờ cúng ở đền) sửa chữa để thờ Thái Bình Công là Mỹ Thuỳ. Đến nay phủ Tôn Nhân lại tâu: Hoàng Thái Tử là người rất thân của nước, năm trước tâu xin làm việc, là quyền nghi một thời, so với tình lễ, vẫn thấy chưa ổn. Xin đem dỡ bỏ 2 toà nhà ở phía trước, sau đền ấy, lấy gỗ theo chỗ cũ làm lại 1 toà nhà ngói 3 gian 2 chái, rồi rước thần chủ Hoàng Thái Tử về phụng thờ như trước, mà để Thái Bình Công thờ phụ vào để tỏ đạo hậu. Vua y cho.

Ngoài tiền đường nhìn vào giữa chánh điện, phía trên cao là bức đại tự ghi 5 chữ lớn:
ĐÔNG CUNG NGUYÊN SOÁI TỪ 東 宮 元 帥 祠.
Lạc khoản ghi: Khải Định Thất Niên Tam Nguyệt Nhật Phụng – Chuẩn Trùng Tu 啓 定 七 年 三 月 日 奉 – 準 重 修
Tức là phủ thờ được tái trùng tu vào tháng 3 năm Khải Định thứ 7 – 1922.


ĐÔNG CUNG NGUYÊN SOÁI TỪ
東 宮 元 帥 祠.
Khải Định Thất Niên Tam Nguyệt Nhật Phụng – Chuẩn Trùng Tu
啓 定 七 年 三 月 日 奉  –  準 重 修

Sau lần trùng tu này do bị hư hỏng vì thời gian thì đến lần bị đốt phá vào năm 1945 trong chiến dịch tiêu thổ của Việt Minh. Năm 1946, Cư sĩ Nguyễn Phúc Tráng Đinh người trong dòng tộc, là nhà hoạt động Phật giáo uyên bác, có đạo tâm đã xin cột kèo và vật liệu còn lại đem cúng chùa Từ Đàm để xây giảng đường Phật học thời bấy giờ. Đồ thờ của phủ còn lại phải đưa ra nhà riêng cụ Thái Thường Tự Khanh 太 常 寺 卿 Cường Trực (gần phủ Kiến An Vương, gần Đập Đá) thờ tạm. Năm 1960 mới dựng lại với quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với trước, là một ngôi nhà xây 3 gian mái lợp tranh. Trải qua cuộc chiến tranh 1968 với các vết đạn lỗ chỗ, năm 1974 nhà được tu sửa, mái lợp được thay bằng tol, năm 1990 mới thay bằng ngói và xây thêm phần tiền đường.

Dù với quy mô nhỏ hơn nhiều so với nguyên bản tuy nhiên vẫn rất trang nghiêm và ấm cúng.
Hai bên án thờ chính của Đức Đông Cung, có hai bức liễn bằng gỗ quý, sơn son thếp vàng, với nội dung chữ Hán như sau:

Một Hữu Hiển Tặng, Sanh Hữu Vinh Phong, Thâm Hỷ Môn Đình Đa Vũ Lộ
沒 有 顯 贈 生 有 榮 封 深 喜 門 康 多 雨 露
Quốc Vi Trung Thần, Gia Vi Hiếu Tử, Miễn Tư Túc Dạ Đáp Quyên Ai
國 為 忠 臣 家 為 孝 子 勉 思 夙 夜 荅 涓 埃

Tạm dịch:
Khi chết được hiển tặng, lúc sống được vinh phong, nhà cửa lắm mừng rỡ nhiều ơn mưa móc.
Với nước là trung thần, với nhà là hiếu tử, sớm tối gắng nghĩ đáp lại chút ơn mảy may.


Một Hữu Hiển Tặng, Sanh Hữu Vinh Phong, Thâm Hỷ Môn Đình Đa Vũ Lộ
沒 有 顯 贈 生 有 榮 封 深 喜 門 康 多 雨 露
Tự Đức Canh Thân Thu
嗣 德 庚 申 秋

Thượng khoản ghi:
Tự Đức Canh Thân Thu
嗣 德 庚 申 秋
Mùa thu năm Canh Thân triều Tự Đức (tức năm Tự Đức thứ 13 – 1860).
Hạ khoản ghi:
Thự Lại Bộ Hữu Thị Lang, Hiệp Lý Đê Chính Sự Vụ , Đệ Nhị Giáp Tiến Sĩ Xuất Thân Nguyễn Tư Giản Cung Hạ
署 吏 部 右 侍 郎 協 理 堤 政 事 務 第 二 甲 進 士 出 身 阮 思 僴 恭 賀
Hữu Thị Lang Bộ Lại, Phụ Trách Công Việc Đê Điều Đệ Nhị Giáp Tiến Sĩ Xuất Thân Nguyễn Tư Giản Kính Mừng.

Cặp câu đối này là của Thượng Thư bộ Lại Nguyễn Tư Giản dâng cúng năm 1860, lúc ông giữ chức Hiệp Lý Đê Chính, là một chức quan phụ trách đê điều thuộc bộ Lại.
Ông là một danh sĩ, một trí thức lớn của nước ta ở thế kỷ XIX và là một vị quan từng trải qua những chức vụ trọng yếu suốt hơn 40 năm, phục vụ 7 đời vua triều Nguyễn, từ vua Thiệu Trị đến vua Đồng Khánh, ông có rất nhiều tác phẩm để lại cho đời.


Quốc Vi Trung Thần, Gia Vi Hiếu Tử, Miễn Tư Túc Dạ Đáp Quyên Ai
國 為 忠 臣 家 為 孝 子 勉 思 夙 夜 荅 涓 埃
Thự Lại Bộ Hữu Thị Lang, Hiệp Lý Đê Chính Sự Vụ , Đệ Nhị Giáp Tiến Sĩ Xuất Thân Nguyễn Tư Giản Cung Hạ
署 吏 部 右 侍 郎 協 理 堤 政 事 務 第 二 甲 進
士 出 身 阮 思 僴 恭 賀

Chúng ta lớn lên, nhận ra quê hương vẫn như trong trí nhớ trẻ thơ nhiều tưởng tượng, với những chuyện sâu kín nữa và đôi lúc lại lung linh, chứa đầy sự kỳ bí linh nghiệm đáng yêu ngàn lần.

Cũng con sông đó, đoạn đường đó, cổng tam quan cũ, phủ thờ xưa, ta nhận ra hình bóng tiền nhân nơi đó gần gũi hơn, quý trọng và nâng niu hơn.

* Xin trích đăng một bài thất ngôn bát cú cực hay của ông Nguyễn Tư Giản khi đi sứ bên Tàu vào năm 1868.

Sương Thiên

Lạc nguyệt mang mang thuỷ thượng lâu,
Hiểu sương như vũ mãn đinh châu.
Bán nhai lục thụ thiêm hoàng diệp,
Nhất dạ thanh sơn tận bạch đầu.

Vân ám bất lai Hành lộc nhạn,
Thiên hàn độc ỷ Sở giang châu.
Lĩnh mai dục vấn hoa khai vị?
Cực mục phong yên giảo khách sầu.

Bảng chữ Hán:

霜 天

落 月 茫 茫 水 上 樓,
曉 霜 如 雨 滿 汀 洲。
半 崖 綠 樹 添 黃 葉,
一 夜 青 山 盡 白 頭。

雲 暗 不 來 衡 麓 雁,
天 寒 獨 倚 楚 江 舟。
嶺 梅 欲 問 花 開 未,
极 目 風 煙 攪 客 愁。

Người viết bài xin mạn phép quan Thượng Thư phỏng thơ lục bát:

Trời sương

Vầng trăng soi bóng mái lầu
Sương mờ che phủ đêm thâu mõi mòn
Lá vàng cành biếc đầu non
Qua đêm phai úa màu son bạc đầu
Mây mờ nhạn Bắc về đâu
Hạc Nam tựa mạn con tàu trầm ngâm
Xuân về mai Lĩnh nở chăng?
Gió sương ngút mắt buồn giăng ngập lòng.

Quoc Lien