Sau khi lên ngôi được 10 tháng, vào tháng 11 năm Minh Mạng thứ nhất (1820), theo lệnh vua Minh Mạng, Đông các học sĩ Đinh Hồng Phiên (Đinh Nguyễn Phiên) soạn bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi (qua kiểm duyệt và châu phê của vua Minh Mạng), dùng đặt chữ lót trước tên cho con cháu trực hệ vua (Đế Hệ), và con cháu của mười hoàng tử anh em (Phiên Hệ). Các bài thơ được soạn theo thể thức tứ tuyệt (4 câu, mỗi câu 5 chữ, thành 20 chữ) thành 11 bài thơ hoàn chỉnh.(*)
Những bài thơ trên, dùng mỹ tự để ghép thành, và để phân biệt từng thế hệ, cứ mỗi đời lại kế tục một chữ.
Những bài thơ có hàm ý khuyên răn, dạy bảo con cháu cố gắng học hành, trau dồi đạo đức, tu tâm dưỡng tánh, để trở thành người tài năng hữu dụng, để lo cho dân cho nước, xứng đáng là con cháu của tiền nhân đã có công lao vỹ đại một thời mở cõi, tạo dựng cơ đồ.
Dưới đây là nghĩa từng chữ của bài Phiên Hệ Thi dành cho con cháu của đức ngài Hoàng Thái Tử – Nguyễn Phúc Cảnh.
MỸ 美 nghĩa là đẹp, xinh, đức hạnh, sự vật tốt
LỆ 麗 là tươi đẹp, đẹp lộng lẫy
ANH 英 là người tài năng, tinh tuý, kiệt xuất, tiếng tốt
CƯỜNG 彊 là mạnh khỏe, sức mạnh
TRÁNG 壯 là hùng mạnh, hào hùng, lớn lao tráng kiện.
LIÊN 聯 là kết hợp, liền nối, tiếp tục.
HUY 輝 là chiếu, soi, rực rỡ, huy hoàng
PHÁT 發 là bắt đầu, mở đầu, hưng khởi
BỘI 佩 là khâm phục, kính ngưỡng (còn có nghĩa là ngọc)
HƯƠNG 香 là mùi thơm, tiếng tốt, được hoan nghênh
LINH 令 là tốt đẹp, hiền lành, danh giá, sai khiến, làm cho.
NGHI 儀 là gương mẫu, khuôn mẫu, dáng vẻ
HÀM 咸 là hòa hợp, phổ cập, truyền khắp.
TỐN 巽 là nhún nhường, khiêm cung. (quẻ Tốn trong Kinh Dịch chỉ về cây cối, gió)
THUẬN 順 là hợp ý, vừa lòng, trôi chảy, suông sẻ, noi theo
VỸ 偉 nghĩa là lớn lao, trác tuyệt, hùng vĩ
VỌNG 望 là chiêm ngưỡng, mong ước, uy tín
BIỂU 表 là mẫu mực, gương mẫu
KHÔN 坤 Quẻ Khôn trong Kinh Dịch tượng trưng cho đất, người mẹ (**)
QUANG 光 Nghĩa là tươi sáng, rạng rỡ
Tác giả bài viết này phỏng thơ như sau:
MỸ Đức hạnh vốn dĩ hàng đầu,
LỆ Sáng tươi nhật nguyệt ngàn sau rạng ngời.
ANH Tài ba kiệt xuất giúp đời
CƯỜNG Hun đúc chí lớn khắp nơi vững bền.
TRÁNG Binh hùng dân mạnh mới nên
LIÊN Hợp lực xây đắp mọi miền quốc gia
HUY Lòng nhân rực rỡ chan hòa,
PHÁT Hưng khởi thành đạt muôn nhà đồng tâm.
BỘI Kính ngưỡng trí ngọc sáng trong,
HƯƠNG Vẹn toàn hiếu thảo tiếng thơm giống nòi.
LINH Tốt tươi hiền đức bao đời,
NGHI Trọng nghĩa khuôn mẫu sáng ngời tương lai
HÀM Hòa thuận truyền khắp lâu dài,
TỐN Khiêm nhường bóng cả trong ngoài ước ao
THUẬN Hợp lòng bách tánh tin trao,
VỸ Dựng xây đất nước lớn lao bội phần
VỌNG Hoạch định kế sách chuyên cần,
BIỂU Xứng danh Nguyễn Phúc quần thần noi gương
KHÔN Đất mẹ thắm nghĩa quê hương,
QUANG Rạng ngời ân đức Tiên Vương lưu truyền.
Dùng chữ lót giúp bà con phân biệt ngôi thứ trong các hệ Chánh Biên, vua Minh Mạng mong muốn dòng họ Nguyễn Phước sẽ truyền nối 20 đời vua, nhưng cuối cùng đã dừng lại ở đời thứ 5 là vua Duy Tân (Vĩnh San) và vua Bảo Đại (Vĩnh Thụy).
Hiện nay trong Phòng Anh Duệ đã đến chữ thứ 9 ( chữ Bội 佩 )
Tuy nhiên có một vấn đề trở ngại trong việc đặt tên cho con cháu sau này, do trước năm 1975, nhiều bà con trong các phủ, phòng thuộc các hệ Chánh Biên nói chung và phòng Anh Duệ nói riêng không dùng họ gốc Nguyễn Phúc (Phước), mà chỉ lấy chữ lót làm họ, cho nên trong khai sinh, giấy tờ xảy ra tình trạng cha con không cùng họ, việc khai báo lắm khi bị trở ngại. Ví dụ: Cha tên Vĩnh A,con trai mang tên Bảo B con gái mang tên Tôn Nữ … C. Hoặc: Cha tên Liên A con tên Huy B v.v…
Theo luật hôn nhân và gia đình hiện hành, con chỉ được mang họ cha hoặc mẹ nên có rất nhiều trường hợp cha Liên sinh con trai phải mang họ Liên, thậm chí con gái là Liên Tôn Nữ…Hoặc cha Huy A con là Huy B, con gái cũng là Huy C v.v…
Trong các hoàng tử của vua Duy Tân – Vĩnh San có hoàng nam Bảo Ngọc, tên đầy đủ là Guy Georges Vĩnh San, ông có bốn người con hàng chữ Quý là Patrick Vĩnh San, Chantal Vĩnh San, Annick Vĩnh San và Pascale Vĩnh San. Đổi sang Nguyễn Phước, Nguyễn Phúc cũng được nhưng nhiều giấy tờ liên quan khác như bằng cấp, học bạ, sổ hộ tịch với nhiều thủ tục nhiêu khê, nên một số bà con đành thúc thủ.
Chi chú:
(*) Ngày 29/11, năm Minh Mạng thứ nhất – 1820 cụ Đinh Hồng Phiên đã tâu lên vua Minh Mạng: “Bề tôi Đông các học sĩ Đinh Nguyễn Phiên cứu đầu rập đầu trăm lạy kính tâu về việc: Nay kính vâng chỉ kiểm soạn các chữ trong Ngọc Phổ. Kính cẩn xếp thành 11 bài 4 câu 20 chữ, cộng 220 chữ kính trình bày theo thứ tự. Kính chờ thánh thượng xét đoán”. (bản dịch từ chữ Hán, Châu bản triều Nguyễn, tờ 223 đến 235).
Theo Đại Nam thực lục: “Vào tháng tư năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Vua ban sách bằng vàng ngự chế về đế hệ dành cho trực hệ của vua và sách bạc về phiên hệ dành cho con cháu các anh em của vua. Lễ tuyên đọc và ban sách được tổ chức ở sân điện Thái Hòa. Nhà vua nói với các hoàng tử rằng: “Trẫm nghĩ tôn thống là quan trọng, muốn thực hiện chí của tiên hoàng, bèn soạn 20 chữ hay, lưu để cho người nối ngôi về sau, chia ra dòng đế, dòng phiên để phân biệt thân sơ… Trẫm chỉ giơ tay lên trán cầu trời cho từ nay về sau con cháu ta nhận nối cơ đồ lớn sẽ được hưởng 500 năm, hưởng đời hơn 20 đời. Cũng không dám mong nhiều đâu…”.
(**) Chữ Khôn 坤 trong câu cuối, gốc là chữ Khiêm 謙. Chữ này bị sửa vì kiêng tên Khiêm lăng của vua Tự Đức, đồng thời cũng là danh hiệu Khiêm Hoàng hậu 謙 皇 后 của bà Trung phi vua Tự Đức là Võ Thị Duyên, do vua Hiệp Hòa tấn tôn năm 1884 theo di chiếu.
Quoc Lien